Hai đoàn đàm phán miền Bắc và Chính phủ cách mạng lâm thời tham gia đàm phán Hiệp định Paris 'tuy hai mà một, tuy một mà hai'. Đây là sách lược rất khôn khéo và chưa từng có trong lịch sử thế giới.
LTS: 50 năm trước, ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết, kết thúc thắng lợi cuộc đấu tranh ngoại giao dài nhất, khó khăn nhất trong lịch sử ngoại giao nước ta ở thế kỷ XX, một mốc son chói lọi trong sự nghiệp c&
aacute;ch mạng vẻ vang của nhân dân ta và nền Ngoại giao Việt Nam.
Hiệp định Paris cũng là kết tinh của sự phối hợp giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước với đối ngoại nhân dân, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Nhân dịp 50 năm Hiệp định Paris, B&
aacute;o VietNamNet thực hiện loạt
bài Hiệp định Paris 1973 - Nửa thế kỷ nhìn lại, với góc nhìn đa chiều từ những người trong cuộc, những nhân
chứng lịch sử đã góp phần làm nên thắng lợi của Hiệp định.
Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan thời điểm công t&
aacute;c ở Bộ Ngoại giao từng th&
aacute;p tùng
đoàn của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh sang Paris ký Hiệp định Paris (1/1973) và sau đó th&
aacute;ng ba sang dự Hội nghị quốc tế thông qua Định ước bảo đảm việc thi hành hiệp định. Ông vẫn nhớ như in những đại lộ dẫn đến hội trường Kleber (Ph&
aacute;p) - nơi diễn ra lễ ký, tràn đầy cờ hoa của
bà con kiều
bào và bạn bè quốc tế.
Từ Moscow tới Bắc Kinh,
đoàn Việt Nam được sự đón tiếp trang trọng nhất của lãnh đạo Liên Xô và Trung Quốc. Về đến Việt Nam khi đúng dịp Tết Quý Sửu, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, nhiều lãnh đạo Đảng, Nhà nước và rất đông người dân đã tới sân bay Gia Lâm vui mừng chào đón c&
aacute;c thành viên trong
đoàn, những người mang chiến thắng trở về từ mặt trận ngoại giao - một c&
aacute;i Tết đ&
aacute;ng nhớ nhất của ông Vũ Khoan.
Nguyên Phó Thủ tướng nhận định: "Lịch sử đã đặt lên vai dân tộc chúng ta một sứ mệnh rất vẻ vang nhưng cũng gian khổ, từ sau khi c&
aacute;ch mạng th&
aacute;ng 8/1945 thành công, suốt mấy chục năm trời nhân dân ta đã phải lần lượt tiến hành c&
aacute;c cuộc kh&
aacute;ng chiến chống Ph&
aacute;p, chống Mỹ".
Cũng trong khoảng thời gian ấy, Việt Nam là nước duy nhất tham gia tới 4 hội nghị quốc tế về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình. Đó là hội nghị Genève năm 1954 về Đông Dương, hội nghị Genève về Lào năm 1961-1962, hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam, hội nghị về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Campuchia năm 1991.
Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan. Ảnh: Lê Anh Dũng
Theo nguyên Phó Thủ tướng, trong tất cả c&
aacute;c sự kiện thì Hiệp định Paris chiếm một vị trí đặc biệt. Bởi lần ?
?ầu tiên sau 89 năm đất nước ta bị giặc ngoại xâm giày xéo, với Hiệp định Paris, Mỹ đã phải cam kết rút hết quân. Hiệp định Paris đã mang lại hoà bình cho miền Bắc, khôi phục lại nền kinh tế đồng thời cũng tăng cường thêm nguồn lực để tiến hành cuộc đấu tranh ở miền Nam đi đến thống nhất đất nước.
Hiệp định Paris cũng góp phần nâng cao vị thế nước ta, trong năm 1973 đã có 15 nước công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ cộng hoà. Cuộc đấu tranh của dân tộc ta và Hiệp định Paris đã đóng góp rất lớn vào sự thay đổi tương quan lực lượng trên thế giới.
Ông Vũ Khoan nhận định, qu&
aacute; trình đàm ph&
aacute;n, ký kết Hiệp định Paris để lại biết bao
bài học kinh điển về nghệ thuật đàm ph&
aacute;n nói riêng và nghệ thuật ngoại giao đặc sắc Việt Nam nói chung.
"Tôi quy tụ thành 4 chữ “K” để dễ nhớ", nguyên Phó Thủ tướng đúc kết.
“Kết hợp”, dân tộc ta ở trong tình thế "lấy yếu đ&
aacute;nh mạnh" cho nên phải tạo dựng sức mạnh tổng hợp, đó là sức mạnh tinh thần và vật chất; hình thành thế trận gọi là “3 vòng mặt trận” (theo c&
aacute;ch nói của cố Tổng Bí thư Trường Chinh) với vòng thứ nhất là
đoàn kết Bắc - Nam, vòng thứ hai
đoàn kết giữa Việt Nam với Lào và Campuchia, vòng thứ ba là
đoàn kết giữa cuộc đấu tranh của nhân dân ta với nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập.
Kết hợp tiếp theo là kết hợp giữa chính trị - quân sự - ngoại giao, trong đó quân sự và chính trị có ý nghĩa quyết định. Kết hợp giữa c&
aacute;c ngành, c&
aacute;c lĩnh vực, giữa ngoại giao Đảng với ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân. Đoàn đàm ph&
aacute;n Việt Nam đã tiến hành nhiều hoạt động sôi nổi, đặc biệt trong Hội nghị Paris, vai trò của truyền thông đóng vai trò rất lớn.
Chữ ký của c&
aacute;c bên trong văn bản Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Ảnh: Tư liệu TTXVN
"Kiên trì", nguyên Phó Thủ tướng lý giải vì phải đối phó với thế lực mạnh thì "không thể một sớm một chiều" có được mà ta phải giành thắng lợi từng bước, từng bộ phận. Ông Vũ Khoan
bày tỏ, cuộc hòa đàm Paris có lẽ là một trong c&
aacute;c cuộc thương lượng về chấm dứt chiến tranh dài ngày nhất trong lịch sử với cuộc "cò cưa" mang tính "việt dã" tới gần 5 năm.
"Kiên quyết", nguyên Phó Thủ tướng phân tích: "Chúng ta rất kiên quyết bất di bất dịch đó là 'Mỹ phải rút hết quân đội và c&
aacute;c nước đồng minh ra khỏi miền Nam Việt Nam trong vòng 60 ngày'. Mặc dù Mỹ cũng đòi hỏi quân đội miền Bắc phải rút khỏi miền Nam thì chúng ta kiên quyết không, b&
aacute;c bỏ c&
aacute;i đó. Thứ hai, nói chuyện về miền Nam Việt Nam phải có đại diện chân chính của nhân dân miền Nam Việt Nam, đó là Mặt trận dân tộc giải phóng và Chính phủ c&
aacute;ch mạng lâm thời".
Một điều "bất di bất dịch" được phía ta nêu ra là Mỹ phải công nhận độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền và quyền tự quyết của nhân dân Việt Nam. Điều này đã ghi trong Tuyên bố chung của Hội nghị Genève năm 1954 nhưng lúc đó Mỹ không tham gia nên lần này tại Hội nghị Paris Mỹ phải công nhận.
"Khôn khéo", như B&
aacute;c Hồ đã nói "nguyên tắc thì phải vững chắc nhưng mà s&
aacute;ch lược phải linh hoạt". Nguyên Phó Thủ tướng lý giải, có 2 điều linh hoạt, đó là ta chưa đặt ra vấn đề xóa bỏ chính quyền Sài Gòn, bởi đây là chuyện để nhân dân Việt Nam giải quyết.
"Chúng ta có hai
đoàn miền Bắc và miền Nam như B&
aacute;c Hồ dặn tại Hội nghị c&
aacute;n bộ ngoại giao (16/3/1966) 'tuy hai mà một, tuy một mà hai'. Đây là s&
aacute;ch lược rất khôn khéo và chưa từng có trong lịch sử thế giới", nguyên Phó Thủ tướng khẳng định. Hai
đoàn song cùng chung một mục đích, mỗi
đoàn hoạt động và thể hiện lập trường chung theo những c&
aacute;ch riêng. Đối phương biết rõ điều này song không làm được gì vì tương quan lực lượng trên chiến trường ngày càng có lợi cho ta.
Ông Vũ Khoan cho biết, sau khi ký Hiệp định Paris thì có một giai đoạn khoảng 2 năm đến khi giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam, công cuộc đấu tranh ngoại giao vẫn tiếp tục, để lại rất nhiều
bài học quý gi&
aacute;.
50 năm Hiệp định Paris qua những con số đặc biệt
Cuộc đàm ph&
aacute;n ở Hội nghị Paris diễn ra đầy cam go, phức tạp, kéo dài gần 5 năm, với 202 phiên công khai, 36 phiên gặp riêng bí mật, với 500 cuộc họp b&
aacute;o và 1.000 cuộc phỏng vấn, đàm ph&
aacute;n.
Giây phút xúc động của
bà Nguyễn Thị Bình khi ký Hiệp định Paris
“Đặt bút ký vào bản Hiệp định Paris lịch sử rất xúc động, nghĩ đến miền Nam, nghĩ đến đồng
bào, đồng chí, đến gia đình, bạn bè trên cả hai miền Nam - Bắc. Trong đời tôi, đây là vinh dự lớn...”, nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình chia sẻ.
50 năm Hiệp định Paris: Nhớ lại chuyện đi vào lòng địch bằng phương tiện của địch
Thực thi Hiệp định Paris 1973, lần ?
?ầu tiên trong lịch sử một cuộc hành quân thần tốc của ph&
aacute;i
đoàn Việt Nam từ Hà Nội đi vào lòng địch (Tân Sơn Nhất, Sài Gòn) bằng chính phương tiện của địch.
Hiệp định Paris: 'Cuộc đọ sức không cân sức' giữa hai nền ngoại giao non trẻ và sừng sỏ
Qu&
aacute; trình đàm ph&
aacute;n, ký kết Hiệp định Paris là cuộc đấu trí không cân sức giữa nền ngoại giao non trẻ với nền ngoại giao sừng sỏ trên thế giới lúc đó.
Trang web giải trí chính thức Galaxy Gem Nguồn bài viết : PT Trực Tuyến